Lưng ong in bóng trên đồng Đong đưa muối mặn, ròng ròng mồ hôi Trời xanh… Muối trắng… Ngút trời Áo em bạc phếch mồ hôi mặn mòi. Nón sao trắng quá… Nón ơi Nón cõng nắng trời, che mát cho em Quằn vai gánh muối nặng thêm Mồ hôi bao giọt thấm mềm muối không? Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa. Ông ví cuộc tình mà ông chờ đợi như cánh buồm trắng ngoài dặm khơi. Mỗi ngày ông quan sát, chờ đợi cánh buồm ấy. Cánh buồm ấy không bao giờ quay về bến nhưng nó luôn thoáng hiện lúc gần lúc xa, nhấp nhô theo sóng nước Nụ hôn của sói. Ngày 17/09/2022. Buổi chiều tối, Tư Đồ Thuần, một người chỉ biết nấu mì gói, trong lúc chống cằm đợi mì chín, đột nhiên tưởng tượng cảnh An Dĩ Phong đeo tạp dề tất bật trong bếp. Thật là buồn cười, còn buồn cười hơn cả hài Mr. Bean trên ti vi Sau khi đau bụng cả tháng tới mức không chịu nổi, người phụ nữ mới tới gặp bác sĩ và phát hiện ra điều khủng khiếp này. Mới đây, người phụ nữ 57 tuổi họ Ye, đến từ Nam Xương, Trung Quốc đã than với bác sĩ rằng mình đã bị đau bụng cả tháng nay mà không rõ Đàn ông đều coi việc chinh phục như vinh quang, nhất là có thể làm người mình yêu sung sướng, bất kể là với cơ thể khuyết thiếu hiện tại của anh. Ainz vươn tay ra vuốt ve gương mặt đỏ bừng của người yêu, thì thầm yêu thương. Đàn bà nào trở dạ cũng đau như thế cả - Nhiên kéo kín khẩu trang, chỉ để hở hai con mắt, bước vào phòng hộ sinh. Sản phụ nằm trên bàn, rên rỉ, van xin: "Bác sĩ ơi! Mổ cho tôi ngay đi!". Nhiên đo vòng bụng, dự đoán thai phải nặng 3,6kg, cổ tử cung đã mở 6-7 phân. Vóc dáng gầy thanh mảnh là một chuyện, nhưng nếu gầy quá mức đến lộ thân hình xương xẩu thì đẹp đâu chẳng thấy, chỉ thấy sợ thôi. Chẳng cần tìm đâu xa, điểm tên một vài sao Việt bạn sẽ thấy, vẫn biết là gầy mảnh mai là đẹp, nhưng có lúc vóc dáng, thân hình 452nN. Môi dày, khóe miệng rõ Tướng đàn ông này là người có chủ kiến, khả năng xử lý tình huống rất tốt. Trong sự nghiệp cũng là người giành được nhiều thành công khiến người khác ngưỡng mộ. Ngược lại, đàn ông khuôn miệng nhỏ, môi mỏng là người thường thích tạo thị phi, chỉ thích động khẩu, không muốn động thủ. Ánh mắt có thần, lông mày dày đậm Có câu "Đại phú xem mắt, tiểu phú xem mũi" vì thế tướng mắt của đàn ông rất quan trọng. Một người đàn ông ánh mắt có thần, nhưng lại có chiều sâu, lòng trắng lòng đen phân rõ ràng thì những người này rất coi trọng gia đình, luôn trân trọng hôn nhân và bạn đời. Ai lấy được những người này cuộc đời sẽ được hưởng sung sướng, hạnh phúc. Mũi thẳng, đầy đặn Tướng đàn ông mũi thẳng là người tính cách hào sảng, tài vận cũng rất tốt. Mũi thẳng, đầy đặn là tướng đàn ông có trách nhiệm, có chữ tín, làm người luôn ngẩng cao đầu, quang minh chính trực. Nếu cuộc đời bạn có người chồng như họ chắc chắn bạn sẽ có chỗ dựa vững chắc. >>> Mời độc giả xem video"Những kiểu tướng mạo đàn ông mà phụ nữ nên biết" tại đây. Nguồn Xem tử vi/Youtube. Xương quai hàm rộng nhưng tròn đầy Xương quai hàm của đàn ông đại diện cho sự kiên trì, nhẫn nại, thủy chung. Đàn ông xương quai hàm phải rộng nhưng không được bành vuông mà phải hơi tròn, đầy đặn thì là người chung thủy, đã yêu ai sẽ yêu đến cùng. Đuôi mắt rõ nét Đường đuôi mắt chỉ là một đường nếp gấp sắc nét, sắc da tươi sáng, không có nốt ruồi, không có nếp nhăn ở đây thì đây, gian môn phẳng đầy thì đây là người đàn ông rất trọng hôn nhân, gia đình. Đối với họ, không có gì có thể đánh đổi được hạnh phúc gia đình mình. Bài viết chỉ mang tính tham khảo, cung cấp nội dung trắc nghiệm vui cho bạn đọc Trích Kinh Vu Lan và Báo Hiếu; Dịch giả HT. Thích Huệ Đăng; Nxb Tôn Giáo PHẬT NÓI KINH BÁO ĐÁP ĐỀN CÔNG ƠN CHA MẸ DIỄN NGHĨA Ta từng nghe lời tạc như vầy Một thuở nọ Thế Tôn an trụ, Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung, Chư Tăng câu hội rất đông, Tính ra đến số hai muôn tám ngàn Lại cũng có các hàng Bồ Tát, Hội tại đây đủ mặt thường thường, Bấy giờ, Phật lại lên đường, Cúng hàng đại chúng Nam phương tiến hành. Đáo bán lộ đành rành mắt thấy, Núi xương khô bỏ đấy lâu đời, Thế Tôn bèn vội đến nơi, Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng. Đức A Nan trong lòng ái ngại, Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương, Vội vàng xin Phật dạy tường “…Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài. Ai ai cúng kính Thầy dường ấy, Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?” Phật rằng trong các môn đồ, Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công. Bởi chưa biết đục trong chưa rõ, Nên vì ngươi Ta tỏ đuôi đầu Đống xương dồn dập bấy lâu, Cho nên trong đó biết bao cốt hài. Chắc cũng có ông bà cha mẹ, Hoặc thân ta, hoặc kẻ ta sanh, Luân hồi sanh tử, tử sanh, Lục thân đời trước, thi hài còn đây. Ta lễ bái kính người tiền bối, Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa. Đống xương hỗn tạp chẳng vừa, Không không trai gái bỏ bừa khó coi. Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ, Phân làm hai bên nữ, bên nam, Để cho phân biệt cốt phàm, Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng. Đức A Nan trong lòng tha thiết, Biết làm sao phân biệt khỏi sai, Ngài bèn xin Phật chỉ bày, Vì khó chọn lựa gái trai lúc này. Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt, Cách đứng đi ăn mặc phân minh, Chớ khi rã xác tiêu hình, Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân. Phật mới bảo A Nan nên biết, Xương nữ nam phân biệt rõ ràng, Đàn ông xương trắng nặng quằn, Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn. Ngươi có biết cớ sao đen nhẹ? Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra, Sanh con ba đấu huyết ra, Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con. Vì cớ ấy hao mòn thân thể, Xương đàn bà, đen nhẹ hơn trai. A Nan nghe vậy bi ai, Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh. Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo, Phương pháp nào báo hiếu song thân? Thế Tôn mới bảo lời rằng Vì ngươi Ta sẽ phân trần khá nghe Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc, Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang, Tháng đầu, thai đậu tợ sương, Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường. Tháng thứ nhì dường như sữa đặc. Tháng thứ ba như cục huyết ngưng. Bốn tháng đã tượng ra hình. Năm tháng ngũ thể 1 hiện sinh rõ ràng. Tháng thứ sáu lục căn 2 đều đủ, Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương, Lại thêm đủ lỗ chân lông, Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn. Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ. Chín tháng thì đầy đủ vóc hình. Mười tháng là đến kỳ sinh. Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn. Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu. Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung, Làm cho cha mẹ hãi hùng, Sự đau, sự khổ không cùng tỏ phân. Sinh sanh đặn muôn phần khoái lạc, Cũng ví như được bạc được vàng. Thế Tôn lại bảo A Nan Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin. Điều thứ nhứt giữ gìn thai giáo, Mười tháng trường chu đáo mọi bề. Thứ hai sanh đẻ gớm ghê, Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần. Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng, Cực đến đâu, bền vững chẳng lay. Thứ tư ăn đắng nuốt cay, Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con Điều thứ năm lại còn khi ngủ, Ướt mẹ nằm khô ráo phần con. Thứ sáu sú nước nhai cơm, Miễn con no ấm chẳng nhờm, chẳng ghê. Điều thứ bảy không chê ô uế, Giặt đồ dơ của trẻ không phiền. Thứ tám chẳng nỡ chia riêng, Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo Điều thứ chín miễn con sung sướng, Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam, Tính sao có lợi thì làm, Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm. Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt, Dành cho con các cuộc thanh nhàn, Thương con như ngọc như vàng, Ơn cha nghĩa mẹ, sánh bằng Thái Sơn. Phật lại bảo A Nan nên biết Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người, Mười phần mê muội cả mười, Không tường ơn trọng đức dày song thân. Chẳng kính mến, quên ân, trái đức, Không xót thương dưỡng dục cù lao, Ấy là bất hiếu mặc giao, Thì những người ấy đời nào nên thân. Mẹ sanh con cưu mang mười tháng, Cực khổ dường gánh nặng trên vai, Uống ăn chẳng đặng vì thai. Cho nên thân thể hình hài kém suy. Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết, Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề, Ví như thọc huyết trâu dê, Nhứt sanh thập tử nhiều bề gian nan. Con còn nhỏ phải lo chăm sóc, Ăn đắng cay, bùi ngọt phần con, Phải tắm, phải giặt, rửa trôn, Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì. Nằm phía ướt, con nằm phía ráo, Sợ cho con ướt áo, ướt chăn, Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân, Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương. Trọn ba năm bú nương sữa mẹ, Thân gầy mòn nào nệ với con, Đến khi vừa được lớn khôn, Mẹ cha dạy bảo cho con vỡ lòng, Cho con đi học mở thông trí tuệ, Dựng vợ chồng có thể làm ăn, Ước mong con được nên thân, Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi. Con đau ốm tức thì lo chạy, Dầu tốn hao cách mấy cũng đành, Khi con căn bệnh đặng lành, Thì cha mẹ mới an thần định tâm. Công dưỡng dục sánh bằng non biển, Cớ sao con chẳng biết ơn này! Hoặc khi lầm lỗi bị rầy, Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang. Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt, Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi, Bà con chẳng kể ra chi, Không tuân Sư Phụ lễ nghi chẳng tường. Lời dạy bảo song đường không kể, Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng. Trái ngang chốn báng mọi đàng, Ra vào lui tới mắng càng người trên. Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn, Lớn lên theo lối hung hăng, Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung. Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ, Nếu tập quen làm sự trái ngang, Nghe lời dụ dỗ quân hoang, Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người Trước còn tập theo thời theo thế, Thân lập thân tìm kế sinh nhai, Hoặc đi buôn bán kiếm lời, Hoặc vào quân lính với đời lập công. Vì ràng buộc đồng công, mối nợ, Hoặc trở ngăn vì vợ vì con, Quên cha quên mẹ tình thâm, Quên xứ quên sở lâu năm không về. Ấy là nói những người có chí, Chứ phần nhiều du hý mà thôi, Sau khi phá hết của rồi, Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài. Theo trộm cướp, hoặc là bài bạc, Phạm tội hình, tù ngục phải vương, Hoặc khi mang bệnh giữa đường, Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng. Hay tin dữ, bà con cô bác, Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu, Thương con than khóc ưu sầu, Có khi mang bệnh đui mù vấn vương. Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ, Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn, Hoặc nghe con chẳng lo lường, Trà đình, tửu điếm, phố phường ngao du. Cứ mài miệt với đồ bất chánh, Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang, Làm cho cha mẹ than van, Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời. Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu, Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều, Ốm đau đói rách kêu rêu, Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương. Phận con gái còn nương cha mẹ, Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa, Cần lao phục dịch trong nhà, Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi. Song đến lúc tòng phu xuất giá, Lo bên chồng chẳng sá bên mình, Trước còn lai vãng viếng thăm, Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà. Quên dưỡng dục song thân ơn trọng, Không nhớ công mang nặng đẻ đau, Chăng lo báo bổ cù lao, Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay. Nếu cha mẹ rầy la quở mắng, Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng, Chớ chi chồng đánh liên miên, Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than. Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ, Nói không cùng nghiệp dữ phải mang, Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng, Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay! Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi, Đập vào mình, vào mũi, vào hông, Làm cho các lỗ chân lông, Thảy đều rướm máu, ướt đầm cả thân. Đến hôn mê tâm thần bất định, Một giây lâu mới tỉnh than rằng Bọn ta quả thiệt tội nhơn, Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù. Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc, Ruột gan dường như nát như tan, Tội tình khó nỗi than van, Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu. Trước Phật tiền ai cầu trần tố, Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân, Làm sao báo đáp thù ân, Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình. Phật bèn dụng Phạm thinh sáu món, Phân rõ cùng Đại chúng lắng nghe, Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề, Không phương báo đáp cho vừa sức đâu. Ví có người ơn sâu dốc trả, Cõng cha mẹ tất cả hai vai. Giáp vòng hòn núi Tu Di, Đến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền. Ví có người gặp cơn đói rét, Nuôi song thân dâng hết thân này, Xương nghiền thịt nát phân thây, Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng. Ví có người vì công sanh dưỡng, Tự tay mình khoét thủng song ngươi, Chịu thân mù tối như vầy, Đến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu. Ví có người cầm dao thật bén, Mổ bụng ra, rút hết tâm can, Huyết ra khắp đất chẳng than, Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng. Ví có người dùng ngàn mũi nhọn, Đâm vào mình bất luận chỗ nào, Tuy là sự khó biết bao, Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền. Ví có người vì ơn dưỡng dục, Tự treo mình cúng Phật thế đèn, Cứ treo như vậy trọn năm, Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền. Ví có người xương nghiền ra mỡ, Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình, Xương tan thịt nát chẳng phiền, Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng. Ví có người vì công dưỡng dục, Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan, Làm cho thân thể tiêu tan, Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền. Nghe Phật nói thảy điều kinh hãi, Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn, Đồng thinh bạch Phật lời rằng Làm sao trả đặng ân thâm song đường! Phật mới bảo các hàng Phật tử, Phải lắng nghe Ta chỉ sau này, Các người muốn đáp ơn dày, Phải toan biên chép Kinh đây lưu truyền. Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng Cùng ăn năn nhũng tội lỗi xưa, Cúng dường Tam Bảo sớm trưa, Cùng là tu phước chẳng chừa món chi. Rằm tháng Bảy đến kỳ Tự Tứ, Thập phương Tăng đều dự lễ này, Sắm sanh lễ vật đủ đầy, Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng. Đặng cầu nguyện song đường trường thọ, Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn, ấy là báo đáp thù ân, Sanh thành dưỡng dục song thân của mình. Mình còn phải cần chuyên trì giới, Pháp Tam quy Ngũ giới giữ gìn, Những lời Ta dạy đinh ninh, Khá nên y thử phụng hành đừng sai Được như vậy mới là khỏi tội, Bằng chẳng thì ngục tối phải sa, Trong năm đại tội kể ra, Bất hiếu thứ nhứt, thật là trọng thay. Sau khi chết bị đày vào ngục Ngũ Vô Gián, cũng gọi A Tỳ, Ngục này trong núi Thiết Vi, Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề. Trong ngục này hàng ngày lửa cháy, Đốt tội nhơn hết thảy thành than, Có lò nấu sắt cho tan, Rót vào trong miệng tội nhơn hành hình. Một vá đủ cho người thọ khổ, Lột thịt da đau thấu tâm can, Lại có chó sắt, rắn gang, Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn. Ở trong ngục có giường bằng sắt, Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong, Rồi cho một ngọn lửa hồng Nuongs quay chúng nó da phồng thịt thau. Móc bằng sắt, thương đao, gươm giáo, Trên không trung đổ tháo như mưa, Gặp ai chém nấy chẳng chừa, Làm cho thân thể nát nhừ như tương. Những hình phạt vô phương kể hết, Mỗi ngục đều có cách trị riêng, Như là xe sắt phân thây, Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi le. Chớ chi đặng chết liền rất đỡ, Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân, Ngày đêm chết sống muôn lần. Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây. Sự hành phạt tại A Tỳ ngục, Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân Chúng ngươi đều phải ân cần, Thừa hành các việc phân trần khoản trên. Nhứt là phải kinh này in chép, Truyền bá ra cho khắp Đông Tây Như ai chép một quyển này, Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy, Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên Do theo nguyện lực tùy duyên, Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền Cha mẹ đặng xa miền khóc lãnh. Lại hóa sanh về cảnh thiên cung, Khi lời Phật giảng vừa xong, Khắp trong tử chúng một lòng kính vâng. Lại phát nguyện thà thân này nát, Ra tro bụi, muôn kiếp chẳng nài, Dẫu cho lưỡi kéo trâu cày, Đến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên. Ví như bị bá thiên đao kiếm. Khắp thân này đâm chém phân thây, Hoặc như lưới trói thân này, Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai. Dẫu thân này bị cưa, bị chặt, Phân chia ra muôn đoạn rã rời, Đến trăm ngàn kiếp như vầy, Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên. Đức A Nan kiền thiền đảnh lễ, Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh, Ngày sau truyền bá chúng sanh, Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành. Phật mới bảo A Nan nên biết, Quyển Kinh này quả thiệt cao xa, Đặt tên “BÁO HIẾU MẸ CHA”, Cùng là “ÂN TRỌNG” thiệt là chơn Kinh. Các ngươi phải giữ gìn chu đáo, Đặng đời sau y giáo phụng hành, Sau khi Phật dạy đành rành, Bốn hàng Phật tử rất mừng, rất vui. Thảy một lòng vâng theo lời Phật, Và kính thành tin chắc vẹn tuyền, Đồng nhau tựu tại Phật tiền, Nhứt tâm đảnh lễ rồi liền lui ra. NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ TÁT 3 lần Bình luận PHẬT THUYẾT KINH BÁO ĐÁP CÔNG ƠN CHA MẸ Diễn nghĩa Ta từng nghe lời tạc như vầy Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá vệ thành Kỳ thụ viên trung Chư Tăng câu hội rất đông Tính ra đến số hai muôn tám ngàn. Lại cũng có các hàng Bồ tát Hội tại đây đủ mặt thường thường Bấy giờ Phật lại lên đường Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành. Đáo bán lộ đành rành mắt thấy Núi xương khô bỏ đấy lâu đời Thế Tôn bèn vội đến nơi Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng. Đức A Nan trong lòng ái ngại Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương Vội vàng xin Phật dạy tường “...Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài Ai ai cũng kính Thầy dường ấy Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?” Phật rằng Trong các môn đồ Người là Đệ tử đứng đầu dày công. Bởi chưa biết đục trong chưa rõ Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu, Đống xương dồn dập bấy lâu Cho nên trong đó biết bao cốt hài. Chắc cũng có Ông Bà Cha Mẹ Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh, Luân hồi sanh tử, tử sanh Lục thân đời trước, thi hài còn đây. Ta lễ bái kỉnh người tiền bối Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa. Đống xương hỗn tạp chẳng vừa Không phân trai gái bỏ bừa khó coi. Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ Phân làm hai, bên nữ bên nam. Để cho phân biệt cốt phàm Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng. Đức A Nan trong lòng tha thiết Biết làm sao phân biệt khỏi sai. Ngài bèn xin Phật tỏ bày Vì khó chọn lựa gái trai lúc này. Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt Cách đứng đi ăn mặc phân minh, Chớ khi rã xác tiêu hình Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân. Phật mới bảo A Nan nên biết Xương nữ nam phân biệt rõ ràng Đàn ông xương trắng nặng quằn Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn. Người có biết cớ sao đen nhẹ Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra, Sanh con ba đấu huyết ra Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con. Vì cớ ấy hao mòn thân thể Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai. A Nan nghe vậy bi ai Xót thương Cha Mẹ công dày dưỡng sanh. Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo Phương pháp nào báo hiếu song thân. Thế Tôn mới bảo lời rằng Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc Sanh đặng con mười tháng cưu mang. Tháng đầu, thai đậu tợ sương Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường Tháng thứ nhì dường như sữa đặc Tháng thứ ba như cục huyết ngưng. Bốn tháng đã tượng ra hình Năm tháng ngũ thể hiện sanh rõ ràng Tháng thứ sáu lục căn đều đủ Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương. Lại thêm đủ lỗ chân lông Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ Chín tháng thì đầy đủ vóc hình. Mười tháng là đến kỳ sanh Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn Bằng ngỗ nghịch làm buồn Thân mẫu Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung. Làm cho Cha Mẹ hãi hùng Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc Cũng ví như được bạc được vàng. Thế Tôn lại bảo A Nan Ơn Cha nghĩa Mẹ mười phần phải tin Điều thứ nhất giữ gìn thai giáo Mười tháng trường chu đáo mọi bề. Thứ hai sanh đẻ gớm ghê Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng Cực đến đâu bền vững chẳng lay. Thứ tư ăn đắng nuốt cay Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con Điều thứ năm lại còn khi ngủ Ướt Mẹ nằm, khô ráo phần con. Thứ sáu, sú nước nhai cơm Miễn con no ấm chẳng nhờm gớm ghê Điều thứ bảy không chê ô uế Giặt đồ dơ của trẻ không phiền. Thứ tám chẳng nỡ chia riêng Nếu con đi vắng Cha phiền Mẹ lo Điều thứ chín miễn con sung sướng Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam. Tính sao có lợi thì làm Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm Điều thứ mười chẳng ham chau chuốt Dành cho con các cuộc thanh nhàn. Thương con như ngọc như vàng Ơn Cha nghĩa Mẹ sánh bằng Thái sơn Phật lại bảo A Nan nên biết Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người. Mười phần mê muội cả mười Không tường ơn trọng đức dày song thân Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức Không xót thương dưỡng dục cù lao. Ấy là bất hiếu mặc giao Thì những người ấy đời nào nên thân Mẹ sanh con cưu mang mười tháng Cực khổ dường gánh nặng trên vai. Uống ăn chẳng đặng vì thai Cho nên thân thể hình hài kém suy Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề. Ví như thọc huyết trâu dê Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan Con còn nhỏ phải năng chăm sóc Ăn đắng cay bùi ngọt phần con. Phải tắm, phải giặt, rửa trôn Biết rằng dơ dáy Mẹ không ngại gì Nằm phía ướt con thì phía ráo Sợ cho con ướt áo, ướt chăn. Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương Trọn ba năm bú nương sữa Mẹ Thân gầy mòn nào nệ với con. Đến khi vừa được lớn khôn Cha Mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng Cho đi học mở thông trí tuệ Dựng vợ chồng có thể làm ăn. Ước mong con được nên thân Dầu cho Cha Mẹ cơ bần quản chi Con đau ốm tức thì lo chạy Dầu tốn hao cách mấy cũng đành. Khi con căn bệnh đặng lành Thì Cha Mẹ mới an tâm định thần Công dưỡng dục sánh bằng non biển Cớ sao con chẳng biết ơn này. Hoặc khi lầm lỗi bị rầy Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang Hỗn Cha Mẹ phùng mang trợn mắt Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi. Bà con chẳng kể ra chi Không tuân Sư phụ lễ nghi chẳng tường Lời dạy bảo song đường không kể Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng. Trái ngang chống báng mọi đàng Ra vào lui tới mắng càn người trên Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn. Lớn lên theo lối hung hăng Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ Nết tập quen làm sự trái ngang. Nghe lời dụ dỗ quân hoang Bỏ Cha bỏ Mẹ trốn sang quê người Trước còn tập theo thời theo thế Thân lập thân tìm kế sanh nhai. Hoặc đi buôn bán kiếm lời Hoặc vào quân lính với đời lập công Vì ràng buộc đồng công mối nợ Hoặc trở ngăn vì vợ vì con. Quên Cha quên Mẹ tình thâm Quên xứ quên sở lâu năm không về Ấy là nói những người có chí Chớ phần nhiều du hý mà thôi. Sau khi phá hết của rồi Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài Theo trộm cướp hoặc là bài bạc Phạm tội hình, tù ngục phải vương. Hoặc khi mang bệnh giữa đường Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng Hay tin dữ, bà con cô bác Cùng Mẹ Cha xao xác buồn rầu. Thương con than khóc ưu sầu Có khi mang bệnh đui mù vấn vương Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn. Hoặc nghe con chẳng lo lường Trà đình tửu điếm phố phường ngao du Cứ mài miệt với đồ bất chánh Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang. Làm cho Cha Mẹ than van Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời Hoặc Cha Mẹ đến hồi già yếu Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều. Ốm đau đói rách kêu rêu Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương Phận con gái còn nương Cha Mẹ Thì có lòng hiếu để thuận hòa. Cần lao phục dịch trong nhà Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi Song đến lúc tùng phu xuất giá Lo bên chồng chẳng sá bên mình. Trước còn lai vãng viếng thăm Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà Quên dưỡng dục song thân ơn trọng Không nhớ công mang nặng đẻ đau. Chẳng lo báo bổ cù lao Làm cho Cha Mẹ buồn rầu thảm thay Nếu Cha Mẹ rầy la quở mắng Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng. Chớ chi chồng đánh liên miên Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ Nói không cùng nghiệp dữ phải mang. Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng Trong hàng Đại chúng lòng càng thảm thay Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi Đập vào mình, vào mũi vào hông. Làm cho các lỗ chân lông Thảy điều rướm máu ướt đầm cả thân Đến hôn mê tâm thần bất định Một giây lâu mới tỉnh than rằng Bọn ta quả thiệt tội nhơn Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc Ruột gan dường như nát như tan. Tội tình khó nỗi than van Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu Trước Phật tiền ai cầu trần tố Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân. Làm sao báo đáp thù ân Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình Phật bèn dụng phạm thinh sáu món Phân rõ cùng Đại chúng lóng nghe Ơn Cha nghĩa Mẹ nặng nề Không phương báo đáp cho vừa sức đâu. Ví có người ơn sâu dốc trả Cõng Mẹ Cha tất cả hai vai Giáp vòng hòn núi Tu di Đến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền. Ví có người gặp cơn đói rét Nuôi song thân dâng hết thân này Xương nghiền thịt nát phân thây Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng Ví có người vì công sanh dưỡng Tự tay mình khoét thủng song ngươi Chịu thân mù tối như vầy Đến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu Ví có người cầm dao thật bén Mổ bụng ra, rút hết tâm can Huyết ra khắp đất chẳng than Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng Ví có người dùng ngàn mũi nhọn Đâm vào mình bất luận chỗ nào Tuy là sự khó biết bao Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền Ví có người vì ơn dưỡng dục Tự treo mình cúng Phật thế đèn Cứ treo như vậy trọn năm Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền Ví có người xương nghiền ra mỡ Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình Xương tan thịt nát chẳng phiền Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng. Ví có người vì công dưỡng dục Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan Làm cho thân thể tiêu tan Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn Đồng thinh bạch Phật lời rằng Làm sao trả đặng thâm ân song đường ? Phật mới bảo các hàng Phật tử Phải lóng nghe ta chỉ sau này Các ngươi muốn đáp ơn dày Phải toan biên chép Kinh đây lưu truyền Vì Cha Mẹ trì chuyên phúng tụng Cùng ăn năn những tội lỗi xưa Cúng dường Tam Bảo sớm trưa Cùng là tu phước chẳng chừa món chi Rằm tháng Bảy đến kỳ tự tứ Mười phương Tăng đều dự lễ này Sắm sanh lễ vật đủ đầy Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng Đặng cầu nguyện song đường trường thọ. Hoặc sanh về Tịnh Độ an nhàn Ấy là báo đáp thù ân Sanh thành dưỡng dục song thân của mình. Mình còn phải cần chuyên trì giới Pháp Tam quy, Ngũ giới giữ gìn Những lời Ta dạy đinh ninh Khá nên y thử phụng hành đừng sai Được như vậy mới là khỏi tội Bằng chẳng thì ngục tối phải sa Trong năm đại tội kể ra Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay Sau khi chết bị đày vào ngục Ngũ vô gián, cũng gọi A tỳ Ngục này trong núi Thiết vi Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề Trong ngục này hàng ngày lửa cháy Đốt tội nhân hết thảy thành than Có lò nấu sắt cho tan Rót vào trong miệng tội nhân hành hình Một vá đủ cho người thọ khổ Lột thịt da đau thấu tâm can Lại có chó sắt, rắn gang Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn Ở trong ngục có giường bằng sắt Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong Rồi cho một ngọn lửa hồng Nướng quay chúng nó da phòng thịt thau Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo Trên không trung đổ tháo như mưa Gặp ai chém nấy chẳng chừa Làm cho thân thể nát nhừ như tương Những hình phạt vô phương kể hết Mỗi ngục đều có cách trị riêng Như là xe sắt phân thây Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi lê Chớ chi đặng chết liền rất đỡ Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân Ngày đêm chết sống muôn lần Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây Sự hành phạt tại A tỳ ngục Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân Chúng ngươi đều phải ân cần Thừa hành các việc phân trần khoảng trên Nhứt là phải Kinh này in chép Truyền bá ra cho khắp đông tây Như ai chép một quyển này Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên Do theo nguyện lực tùy duyên Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền Cha Mẹ đặng xa miền khốc lãnh Lại hóa sanh về cảnh Thiên cung Khi lời Phật giảng vừa xong Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng Lại phát nguyện thà thân này nát Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài Dầu cho lưỡi kéo trâu cày Đến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên Ví như bị bá thiên đao kiếm Khắp thân này đâm chém phân thây Hoặc như lưới trói thân này Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai Dầu thân này bị cưa bị chặt Phân chia ra muôn đoạn rã rời Đến trăm ngàn kiếp như vầy Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên Đức A Nan kiền thiền đảnh lễ Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh Ngày sau truyền bá chúng sanh Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành Phật mới bảo A Nan nên biết Quyển kinh này quả thiệt cao xa Đặt tên "Báo Hiếu Mẹ Cha" Cùng là "Ân Trọng" thiệt là chơn Kinh Các ngươi phải giữ gìn châu đáo Đặng đời sau y giáo phụng hành Sau khi Phật dạy rành rành Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui Thảy một lòng vâng theo lời Phật Và kính thành tin chắc vẹn truyền Đồng nhau tựu tại Phật tiền Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra. - Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát. 3 lần TÂM KINH Tâm trí tuệ thinh thinh rộng lớn Sáng trong ngần chẳng bợn mảy trần Làu làu một tánh thiên chân Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt Cõi bờ kia một bước đến nơi Trải lòng tròn đủ xưa nay Công thành quả chứng tỏ bày đích đang Hàng Bồ tát danh Quan Tự Tại Khi tham thiền vô ngại đến trong Thẩm vào trí huệ mở thông Soi thấy năm uẩn đều không có gì Độ tất cả không chi khổ ách Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra Sắc, không chung ở một nhà Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không Ấy sắc tướng cũng đồng không tướng Không tướng y như tượng sắc kia Thọ tưởng hành thức phân chia Cũng lại như vậy, tổng về chân không Tòa sắc tướng nhơn ông tạm đó Các pháp kia tướng nọ luống trơn Chẳng sanh chẳng diệt thường chơn Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm Cớ ấy nên cõi trên không giới Thể làu làu vô ngại thường chân Vốn không năm uẩn ấm thân Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không Thấy rỗng không mà không nhãn giới Biết hoàn toàn thức giới cũng không Tánh không sáng suốt đại đồng Vô minh chẳng có mựa hồng hết chi Vẫn không có thân gì già chết Huống chi là hết chết già sao Tứ đế cũng chẳng có nào Không chi là trí có nào đắc chi Do vô sở đắc ly tất cả Nhơn pháp kia đều xả nhị không Vận lòng trí huệ linh thông Bờ kia mau đến tâm không ngại gì Không quái ngại có chi khủng bố Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên Tâm không rốt ráo chư duyên Niết Bàn quả chứng chơn nguyên hoàn toàn Tam thế Phật, y đàng Bát nhã Đáo Bồ đề chứng quả chánh nhơn Cho hay Bát nhã là hơn Pháp môn tối thắng cõi chơn mau về Thiệt thần chú linh tri đại lực Thiệt thần chú đúng mực quang minh Ấy chú tối thượng oai linh Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần Trừ tất cả nguyên nhân các khổ Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư Thiên nhơn chơn thiệt bất hư Án lam thần chú chơn như thuyết rằng "Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha" 3 lần VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN Nam mô a di đa bà dạ. Đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ. A di rị đa, tỳ ca lan đế. A di rị đa, tỳ ca lan đa. Dà di nị, dà dà na. Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. 3 lần BÀI TÁN THÁN PHẬT A DI ĐÀ Chúng Thích tử kiền thiền xưng tán Đức Di Đà vô hạn lợi sanh Bốn mươi tám nguyện viên thành Hiện ra tướng tốt sắc thân tuyệt vời. Kim sắc tướng muôn ngàn công đức Khắp mười phương chẳng bực sánh bằng Bạch hào hiển hiện phóng quang Xoay vần chiếu sáng vi san năm tòa. Cặp thanh nhãn thấy xa vô ngại Sáng trong ngần tứ đại hải dương Hào quang hóa Phật không lường Hóa chúng Bồ tát số đương hằng hà. Độ chúng sanh liên hoa chín phẩm Nước Lạc Bang là cảnh Tây Phương Chí thành thập niệm chiêu chương Hiện tiền thánh chúng dẫn đường vãng mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. Trước hết, đàn ông là kẻ mày râu. Nói chữ thì đó là hạng “tu mi nam tử” Mày râulà trời sinh ra thế. Nhưng đó là cái phần tự nhiên. Còn cái phần xã hội thì mày râu lại liên quan đến chuyện luân lý đạo dao xưa có câu “Đàn ông không râu bất nghì”. “Nghì” là đọc chệch của “nghĩa” theo luật ép vần trong thơ. Cha ông xưa xem tướng đàn ông, đàn bà theo kiểu “trông mặt mà bắt hình dong”. Đàn ông không râu là bất nghĩa, cũng như “đàn bà không vú lấy gì nuôi con”. Thế nghĩa là có râu mới là đàn ông thứ thiệt, giống như phụ nữ với thiên chức sinh con, nuôi con thì không thể thiếu hai bầu sữa thiêng liêng tinh khiết mà tạo hoá ban ông là phái mạnh. Trước tiên cũng là nói cái mạnh cơ bắp, cái mạnh thế lực. Cấu tạo cơ thể người nam vốn dĩ do tạo hoá đất mà ra như vậy. Để phái nữ được bị coi là phái yếu. Nhưng đàn ông chỉ là đàn ông khi cái mạnh được tôn lên bên cái đẹp, tức là nửa dương phải có nửa âm mới trọn vẹn hoàn chỉnh. Cứng cáp so với nhẹ nhàng, mạnh mẽ so với dịu dàng. Nếu không, phái mạnh hoá ra là “vũ phu”. Nữ sĩ Xuân Quỳnh từng có một bài thơ hay về phái yếu, nói là yếu nhưng thực ra là mạnh đấy, vì “nếu sáng này em chẳng đong được gạo, chắc chắn buổi chiều anh không có cơm ăn”. Nhưng cuối cùng trái tim nhà thơ đầy đa cảm thương yêu này vẫn nhìn ra một biện chứng cuộc sống của con người “Thú thực là chúng tôi cũng không sống được, nếu không có các anh thế giới chỉ là đàn bà”.Đàn ông là nhẹ dạ, cả tin là duy mĩ. Mặc dù họ được coi là thiên về duy lý. Vườn Eden vì vậy không còn là chốn thiên đường cho Adam. Bao quốc gia bại vong vì “nhan sắc khuynh thành” của những mỹ nhân. Những người đàn ông là các bậc vua chúa, các tướng soái, tư lệnh các doanh nhân, kỹ nghệ gia, họ cai quản cả thế giới nhưng lắm khi họ lại ngờ ngệch, ngây thơ như trẻ nhỏ. Nhân loại vì thế mà đau khổ nhiều hơn, hạnh phúc cũng nhiều hơn. Oscar Wilde có một nhận xét hay “ Không bao giờ có thể tước được khí giới của phụ nữ bằng lời khen nhưng với đàn ông thì bao giờ cũng có thể”.Đàn ông là điên rồ. Hình như trong mỗi họ đều có cái chất điên điên của Đôn Kihôtê mà nhân loại vừa kỷ niệm 400 năm lão ra đời ở xứ sở đấu bò tót. Phụ nữ chẳng bao giờ nhìn cối xay gió thành tên khổng lồ như đàn ông. Nhìn ra thế, rồi lao vào đánh nhau đến bươu đầu sứt trán mà vẫn mê không tỉnh. Nhưng nếu không thế, đàn ông hình như lại không phải đàn ông. Điên rồ và đàn ông tích hợp trong mình hai mâu thuẫn thống nhất ấy. Những thói tật xấu của đàn ông là từ đó mà ra. Cô đơn với đàn ông là một thứ xa ông là Man và Homme. Viết hoa, đàn ông như vậy là Con Người, là loài người chẳng biết ngoài tiếng Anh, tiếng Pháp ra, còn thứ tiếng nào khác đánh đồng hai khái niệm này trong ngôn ngữ nữa không. Đây là vết tích của chế độ phụ quyền chăng? Kể ra như thế cũng là gánh nặng cho đàn ông khi họ phải mang vác trên vai mình một sứ mệnh của giống ông là… là gì nữa đây? Đàn ông là không phải đàn bà, là hoà hợp với đàn bà. Nếu không có đàn bà, cũng chẳng có đàn ông. Vật tương khắc tương sinh, người tương sinh tương lại, đàn ông là… đàn ông. Có thể không mày râu, có thể không mạnh khoẻ, có thể không điên rồ, nhưng có cốt cách đàn ông, có tình cảm đàn ông, là đàn ông. Vậy thôi.

đàn ông xương trắng nặng quằn